tiếng chuông trấn vũ canh gà thọ xương

Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Mịt mùng khói tỏa ngàn sương, Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây hồ. Và trong ca dao Huế: Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương. Thuyền về xuôi mái dòng Hương, Biết đâu tâm sự đôi đường đắng cay. I. Nguồn gốc Hiện nay có ba quan điểm chính: 1. Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Cương. Hai là ở Hà Nội: Phất phơ ngọn trúc trăng tà, Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Tôi nghĩ thế nào một trong hai câu thơ này cũng phải có cảm hứng từ câu thơ kia. Dù sao việc này cũng không liên quan đến tiêu đề lắm, chỉ là tôi thấy mọi người hay gọi nhầm chùa Thiên Mụ và chùa Thiên Hậu. Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương." Tiếng chuông ngân vang hòa cùng tiếng gà le te gáy, hai âm thanh ấy như hòa quyện vào nhau và tan ra trong màn sương mịt mờ trời thu, cảnh vật như trở nên thơ mộng hơn bao giờ hết. Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương, Mịt mù khói tỏa ngàn sương, Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ". Riêng ở miền Nam, người ta lại thường được nghe bài thơ có khác và chỉ có hai câu: "Gió đưa cành trúc la đà Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương." Hai bài thơ tả cảnh gần giống nhau: cảnh của hai cố đô thuộc hai miền Nam - Bắc. Duới đây là các thông tin và kiến thức về chủ đề tiếng chuông thiên mụ canh gà thọ xương là gì hay nhất do chính tay đội ngũ Newthang biên soạn và tổng hợp: 1, Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ. Giới thiệu Phụ huynh sửng sốt với món 'canh gà Thọ Xương' Kiểm tra vở Văn, phụ huynh sốc khi thấy con viết "tiếng chuông Trấn Vũ" là nét đẹp tôn trọng thờ kính tổ tiên, còn "canh gà Thọ Xương" là món canh gà ở hồ Tây. Cô không sửa sai sót này mà vẫn cho điểm 8. masrconingpo1986. Đề bài Phát biểu cảm nghĩ về bài ca dao Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Mịt mù khói tỏa ngàn sương, Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ. Bài văn mẫu Trong ca dao – dân ca, đề tài về cảnh đẹp đất nước chiếm một mảng khá lớn. Mỗi bài là một bức tranh phong cảnh tuyệt với, ẩn chứa lòng tự hào, tình cảm gắn bó thiết tha, sâu nặng với quê hương, xứ sở. Bài ca dao nói về cảnh đẹp Hồ Tây ở thủ đô Hà Nội được lưu truyền rộng rãi và đã trở thành lời ru quen thuộc Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Mịt mù khói tỏa ngàn sương, Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ. Hồ Tây xưa kia có tên là hồ Lãng Bạc tức cái bến có sóng lớn, hay còn gọi là Dâm Đàm hồ sương mù vì thường vào lúc sáng sơm và chiều tồi, sương phủ dày trên mặt nước. Vì ở vị trí phía Tây kinh thành nên sau này nó được gọi là Hồ Tây. Xung quanh hồ là những địa danh nổi tiếng của đất Thăng Long như chùa Trấn Vũ, huyện lị Thọ Xương, làng Yên Thái vùng Bưởi chuyên nghề làm giấy vỏ cây dó được ngâm mềm, giã nhuyễn rồi cán mỏng thành giấy, phường Nghi Tàm, quê hương của Bà Huyện Thanh Quan , thi sĩ nổi tiếng của nước ta. Bài ca dao là bức tranh toàn cảnh Hồ Tây vào một buổi sáng tinh mơ. Mở đầu là nét chấm phá đơn xơ nhưng sinh động Gió đưa cành trúc la đà. Làn gió nhẹ sớm mai làm đung đưa cành trúc nặng trĩu sương đêm, tạo nên cái dáng mềm mại, nên thơ. Bức tranh duy nhất chỉ có nét thanh mảnh của cành trúc la đà trên cái nền mông lung mờ ảo của bầu trời và mặt hồ. Trong câu tiếp theo, các âm thanh hòa quyện vào nhau Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Tiếng chuông ngân nga, tiếng gà gáy rộn rã báo hiệu một ngày mới bắt đầu. Tiếng chuông chùa vang vọng giữa thinh không gợi cảm giác bình yên. Tiếng gà gáy gợi lên cảm giác quen thuộc nơi thôn dã. Âm thanh của cõi đạo, cõi đời hòa quyện, làm tăng thêm vẻ tĩnh lặng của đất trời lúc đêm tàn, ngày rạng. Ai đã một lần đến Hồ Tây khi màn sương dày đặc còn bao phủ mặt hồ sẽ thấy được cái hay, cái đẹp của câu Mịt mù khói tỏa ngàn sương, để rồi thực sự sống trong tâm trạng lâng lâng thoát tục trước vẻ đẹp thần tiên ấy. Nếu ở ba câu thơ trên mới thấp thoáng hơi hướng cuộc sống thì đến câu thứ tư, hình ảnh cuộc sống lao động bỗng hiện ra rõ nét qua nhịp chày giã dó dồn dập của dân làng Yên Thái. Nhịp chày cũng là nhịp điệu hối hả của cuộc sống cần lao. Hình ảnh mặt gương Tây Hồ làm bừng sáng cả bài ca dao. Mặt trời lên xua tan sương mù, tỏa ánh nắng xuống mặt nước, Hồ Tây trở thành một gương mặt khổng lồ sáng long lanh, vô cùng đẹp đẽ! Như vậy là chỉ vẻn vẹn trong bốn câu thơ lục bát mà cảnh đẹp Hồ Tây đã được ngòi bút tài hoa của người xua vẽ thành bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ. Ẩn chứa sau từng câu, từng chữ là lòng tự hào, yêu mến tha thiết với quê hương của người dân đất Thăng Long ngàn năm văn vật. Trên khắp đất nước Việt Nam ta, ở đâu cũng có những cảnh đẹp làm xao xuyến hồn người. Xứ Lạng ở Đồng Đăng có phố Kì Lừa, Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh. Hà Nội với ba sáu phố phường, Hồ Tây, Hồ Gươm, gò Đống Đa, chùa Một Cột… Miền Trung với Đường vô xứ Nghệ quanh quanh, Non xanh nước biếc như tranh họa đồ. Xứ Huế với vẻ đẹp uy nghiêm, trầm mặc của cung điện, đền đài, lăng tẩm, của sông Hương với núi Ngự Bình. Những đêm trăng sáng, tiếng hò ngân dài trên sông nước Hương Giang Đò từ Đông Ba đò qua đập đá, Đò về Vĩ Dạ thẳng ngã ba Sềnh, Lờ đờ bóng ngả trăng chênh, Tiếng hò xa vọng nặng tình nước non. Người dân Nam Bộ tự hào với mảnh đất trù phú, mỡ màu bốn mùa hoa thơm trái ngọt, lúa chín vàng đồng Cần Thơ gạo trắng nước trong, Ai đi đến đó chẳng mong ngày về… Tất cả những câu ca ấy dù mộc mạc hồn nhiên hay trau chuốt, trữ tình đều nói lên cảnh đẹp gấm hoa của non sông đất nước và thể hiện tình yêu quê hương đậm đà, sâu nặng của nhân dân ta. Giống như bao bài ca dao khác, bài Cảnh đẹp Hồ Tây sẽ sống mãi trong đời sống tinh thần của nhiều thế hệ người Việt. Những câu hát về tình yêu quê hương, đất nước, con người *** Từ mấy mươi năm qua nhiều người vẫn thuộc bốn câu thơ tả cảnh đẹp Hà Nội xưa “Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương, Mịt mù khói tỏa ngàn sương, Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ”. Riêng ở miền Nam, người ta lại thường được nghe bài thơ có khác và chỉ có hai câu "Gió đưa cành trúc la đà Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.” Hai bài thơ tả cảnh gần giống nhau cảnh của hai cố đô thuộc hai miền Nam – Bắc. Điều trùng hợp lạ kì là Hà Nội và Huế đều có địa danh Thọ Xương. Ở Hà Nội có ngõ Thọ Xương. Đây là địa danh ngày xưa dùng đặt cho một huyện của Hà Nội cũ huyện Thọ Xương nay thuộc địa phận quận Hoàn Kiếm và quận Hai Bà Trưng. Từ đời nhà Lê về trước, đây là huyện Vĩnh Xương, đến đời nhà Mạc đổi thành Thọ Xương. Còn Thọ Xương ở Huế lại là một cái gò cao gần sông Hương. Khu rừng thông gần đó có xây kho chứa thóc gọi là Thọ Khương thượng khố kho chứa thóc Thọ Khương. Khi Gia Long lên ngôi năm 1802 vì kỵ húy Hiếu Khương Hoàng đế, Thọ Khương được đổi ra Thọ Xương. Năm Minh Mạng thứ năm 1824 lại đổi tên thành Long Thọ cương gò Long Thọ trên gò có dựng đình bát giác gọi là đình Long Thọ cương. Bên này sông Hương là gò Long Thọ. Bên kia bờ sông Hương có tháp 7 tầng của chùa Thiên Mụ. 1 Vậy là ngày xưa cả hai cố đô đều có địa danh Thọ Xương nên chỉ cần đổi chữ Thiên Mụ ra Trấn Vũ là cảnh đẹp Huế đã thành ra cảnh Hà Nội và ngược lại. BÀI THƠ THỨ NHẤT CÓ PHẢI LÀ CA DAO ? Bài thơ đầu bấy lâu nay vẫn được cho là ca dao. Điều này không đúng bởi ca dao là tác phẩm của quần chúng, không có tên tác giả trong khi 4 câu thơ của bài này thuộc bài thơ Hà Nội tức cảnh, tác giả là Dương Khuê, tự Giới Nhu, hiệu Vân Trì, đỗ Tiến sĩ và làm quan đời nhà Nguyễn. Tập thơ Vân Trì Thi Thảo của Dương Khuê ký hiệu VHv. 2482, hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm có chép bài thơ viết bằng bút lông, mực tàu xem ảnh. Ảnh chụp trang thơ “Vân Trì Thi Thảo” của Dương Khuê có chép bài thơ “Hà Nội tức cảnh 2 * Câu đầu bài thơ có chữ “TRĂNG” khoanh vòng tròn đỏ đã bị viết nhầm thành “trắng”. Bài thơ đánh máy lại cho rõ theo font chữ Nôm giữ nguyên lỗi chữ “trắng” Phiên âm HÀ NỘI TỨC CẢNH Phất phơ ngọn trúc trăng tà. Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương, Mịt mù khói tỏa ngàn sương. Tiếng chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ”. Tập thơ Vân Trì thi thảo trước đây ít ai biết. Không riêng gì quần chúng mà ngay cả các nhà nghiên cứu như Xuân Diện, chuyên gia về Hán-Nôm trong bài “Đã tìm thấy câu thơ ..."Canh gà Thọ Xương" trong "Dương Gia phả ký" trên blog riêng đã viết “Trước hết, cho đến nay, sau nhiều năm tìm hiểu về thi văn của các tác gia họ Dương ở Vân Đình Ứng Hòa, Hà Tây cũ [ít nhất là từ năm 1993], chúng tôi chưa từng gặp một văn bản Hán Nôm nào chép bài thơ trên...” . "Dương Gia phả ký", bản đánh máy chữ quốc ngữ trên giấy tây, do Dương Thiệu Cương lập vào cuối mùa hạ năm Quý Sửu 1973 gồm 122 trang. Từ trang 106 có bài thơ "Hà Thành tức cảnh”. Bài thơ này có mấy chữ khác với bản chữ Nôm trong Vân Trì Thi Thảo. Tư liệu trích từ blog của TS. Nguyễn Xuân Diện. Vào thời điểm cách đây hơn 10 năm, sau khi nhận được thư của ông Dương Nghiệp Bảo thuộc dòng dõi cụ Nghè Vân Đình Dương Khuê từ Manila gửi về đề ngày TS. Nguyễn Xuân Diện đã giới thiệu bản đánh máy bằng chữ quốc ngữ "Dương Gia phả ký” do Dương Thiệu Cương biên soạn vào cuối mùa hạ năm Quý Sửu 1973 và được Dã Lan Nguyễn Đức Dụ in. "Dương Gia phả ký" từ trang 106 bắt đầu chép thơ của cụ Nghè Vân Đình Dương Khuê và cũng ngay trang này có bài thơ "Hà Thành tức cảnh", gồm 4 câu thơ nêu trên. TS. Nguyễn Xuân Diện cùng ghi chú thêm “Trong sách Tâm trạng Dương Khuê - Dương Lâm, Nxb KHXH, Hà Nội, 2005, tác giả Dương Thiệu Tống cho biết "Bài thơ này chép và chú thích theo Dương gia phả ký và Luận đề về Dương Khuê” Nguyễn Duy Diễn Luận đề về Dương Khuê. Nhà in Khai trí, Sài Gòn, 1960, trang 160. Như vậy, từ năm 1960, tài liệu Luận đề về Dương Khuê đã khẳng định bài Hà thành tức cảnh là của Dương Khuê. Xưa hơn thế, sách Văn đàn bảo giám, tuyển tập thơ ca do Trần Trung Viên sưu tập […] cũng khẳng định Hà Thành tức cảnh là của tác giả Dương Khuê. Tuyển tập thi ca Văn đàn bảo giám xuất bản chỉ cách năm Dương Khuê tạ thế 1902 khoảng hai ba chục năm, vì thế, có thể tin được”. Vậy là nay ta đã có nhiều chứng cứ xác định rõ bốn câu thơ tả cảnh đẹp Hà Nội trên không phải là ca dao mà là một bài thơ của nền Văn học viết thời thuộc Pháp. Chỉ có điều lạ là ai đã sửa câu thơ đầu của nguyên bản “Phất phơ ngọn trúc trăng tà” thành ra “Gió đưa cành trúc la đà”? Dương Thiệu Tống là cháu nội của Dương Khuê đã cho rằng "Có người đã sửa đổi câu thơ này là Gió đưa cành trúc la đà, nhưng có lẽ là sai vì làm mất đi ý nghĩa ẩn dụ của toàn câu mà chỉ có ý nghĩa tả cảnh mà thôi".3 BÀI THƠ THỨ NHÌ CÓ PHẢI LÀ DÂN CA ? Tìm trong kho sách văn học nước ta thấy có du kí “Mười ngày ở Huế” của học giả Phạm Quỳnh đăng trên báo Nam Phong về sau được NXB Văn Học in thành sách năm 2001. Ở chương IV của thiên du kí này có đoạn viết như sau “Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương. Cả cái hồn thơ của xứ Huế như chan chứa trong hai câu ca ấy. Chùa Thiên Mụ là một chốn danh lam, có cái tháp bẩy từng, ở ngay trên bờ sông Hương, làng Thọ Xương thì ở bờ bên kia. Đêm khuya nghe tiếng chuông chùa với tiếng gà gáy xa đưa văng vẳng ở giữa khoảng giời nước long lanh mà cảm đặt thành câu ca cho con trẻ hát, ấy mới rõ cái tính tình của người xứ Huế…” 4 Vậy là chính Phạm Quỳnh đã xác nhận hai câu thơ trên là câu ca của con trẻ…. nhưng ai là người đặt câu ca ấy? Chính Phạm Quỳnh hay người dân xứ Huế? Điều này nay ta chưa được rõ, chỉ biết ở miền Nam xưa hầu như ai cũng biết đến hai câu thơ tả cảnh đẹp của Huế… rồi đến khoảng thập niên 60 khi bài hát Thương về cố đô của Châu Kỳ được phổ biến rộng rãi thì người ta biết thêm hai câu cuối “Thuyền về xuôi mái sông Hương/ Có nghe tâm sự đôi đường đắng cay”. Có người cho rằng Châu Kỳ đã phổ nhạc cả 4 câu từ một bài dân ca Huế. Chùa Thiên Mụ bên sông Hương “TIẾNG CHUÔNG THIÊN MỤ ” & “TIẾNG CHUÔNG TRẤN VŨ ” ĐÂU LÀ NGUYÊN BẢN? Điều mà nhiều người đến nay vẫn thắc mắc là tại sao mấy câu thơ của Dương Khuê 1839-1902 và Phạm Quỳnh 1892-1945 lại có nhiều nét giống nhau đến vậy! Dương Khuê người phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông, nay thuộc huyện Ứng Hòa, Hà Nội; còn Phạm Quỳnh tuy về sau vào Huế làm Chủ bút báo Nam Phong rồi làm quan Thượng Thư của triều Bảo Đại nhưng cũng là người sinh trưởng ngay giữa phố phường Hà Nội. Có thể chính Phạm Quỳnh đã đọc các câu thơ của Dương Khuê rồi cảm cái hồn thơ ấy mà viết nên mấy câu cho xứ Huế. Biết đâu Phạm Quỳnh đã lấy hai câu đầu của bài thơ rồi đổi Trấn Vũ thành Thiên Mụ? Cũng có ý kiến ngược lại, cho rằng Dương Khuê lúc cuối đời, chán cảnh quan trường thời thuộc Pháp mà treo ấn từ quan rồi đi ngao du sơn thủy… vào đến Huế nghe bài dân ca tả cảnh đẹp xứ Huế… đến lúc về lại Hà Nội đã cảm tác mà làm nên bài thơ tả cảnh với 4 câu nay ta đọc thấy trong Vân Trì Thi Thảo. Bài thơ sớm phổ biến rộng rãi rồi nhiều người đã lầm tưởng đây là bài ca dao dân dã ca ngợi cảnh đẹp Hà Nội. - CHÚ THÍCH Phạm Quỳnh trong “Mười ngày ở Huế” cho rằng Thọ Xương trong câu ca là làng Thọ Xương. Ở Huế có làng chài Thọ Khương gần làng Nguyệt Biều. Ảnh trích từ ngày 19/10/2012. Dương Thiệu Tống, Tâm trạng của Dương Khuê và Dương Lâm, Nxb. Khoa học Xã hội, HN, 2005. Phạm Quỳnh; Mười ngày ở Huế Phần IV - NXB Văn học, 2001. Vũ Quốc ThúcDuy Vũ sưu tầmMới đây tôi được đọc trên mạng lưới Internet một bài phiếm luận lý thú về hai câu thơ, thời tiền đô hộ Pháp. Đó là hai câu lục bátGió đưa cành trúc la đà,Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương ...Ngay từ hồi còn học ở Trường Thành Chung Nam Định 1934 - 1937, tôi đã được đọc hai câu thơ này, nhưng không phải là tiếng chuông Thiên Mụ mà là tiếng chuông Trấn Vũ. Theo tôi nhớ thì đây là hai câu đầu của một bài thơ tứ tuyệtGió đưa cành trúc la đà,Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương,Mịt mù bãi cát màn sương,Nhịp chày Yên Thái , bóng gương Tây Hồ..Thiên Mụ là tên một ngôi chùa danh tiếng ở ngoại thành Huế, còn Trấn Vũ là tên một ngôi chùa cũng rất nổi danh ở phía tây thành Thăng Long cũ tức Hà Nội. Vậy thì địa danh nào mới đáng coi là chính xác? Dĩ nhiên những ai sinh trưởng ở miền Trung, đặc biệt ở vùng Thừa Thiên, có xu hướng chọn địa danh Thiên Mụ. Trái lại những người gốc miền Bắc tin rằng địa danh Trấn Vũ mới đúng sự Thiên MụBản thân kẻ viết bài này không bao giờ có đầu óc địa phương phi lý như vậy trái lại chúng tôi rất trân quý đồng bào miền Trung. Tuy nhiên khi bàn về một đề tài liên can tới văn học sử chúng ta cần phải khách quan và tôn trọng tinh thần khoa học. Tôi tin rằng tiếng chuông trong câu thơ trên là chuông chùa Trấn Vũ vì những lý do sau Trấn VũTrước hết, địa danh Trấn Vũ không đưa ra một cách đơn lẻ mà đặt trong một tổng thể gồm 4 địa danh Trấn Vũ, Thọ Xương, Yên Thái, và Tây Hồ. Cả bốn địa danh này đều thuộc một khu vực chung là vùng tây cố đô Thăng Long, tức Hà Nội cũ. Chùa Trấn Vũ là một thắng cảnh nằm trên đường Cổ Ngư, một đường đê ngăn cách Hồ Tây và Hồ Trúc Bạch. Thọ Xương là tên cũ của một huyện sát thành Thăng Long, trên bờ Hồ Tây, trong đó có những làng danh tiếng như làng Bưởi, làng Thụy Khê, làng Yên Thái, vân vân... Đặc biệt là làng Yên Thái chuyên nghề làm giấy bản trong làng suốt ngày vang tiếng chày giã bột giấy của nhân dân. Như vậy toàn bài thơ tứ tuyệt liên can tới một vùng nhất định là vùng ngoại thành phía Tây của cố đô Thăng Long. Nếu cho là tiếng chuông của chùa Thiên Mụ thì làm sao giải thích được sự hiện diện trong cùng câu thơ của huyện Thọ Xương, một nơi cách xa Huế hàng nghìn dặm? Hồ Tây Đọc bài thơ tứ tuyệt nói trên, ta có thể mường tượng là tác giả đã sáng tác ở đâu trong hoàn cảnh nào. Rõ ràng là lúc đó ông hay bà? ta đang ngụ ở một nơi trông ra Hồ Tây cách chùa Trấn Vũ cũng như làng Yên Thái không xa lắm nên mới nghe được tiếng chuông chùa cũng như tiếng chày giã bột giấy của dân làm giấy. Trước biến cố ngày 9 tháng 3 năm 1945 kẻ viết bài này từng cư ngụ ở đường Pépinière, một con đường đi từ đường Quan Thánh qua trường Bưởi tức Lycée du Protectorat sau đổi tên là trường Chu Văn An, tới Vườn Ươm Cây của Thành Phố Hà Nội vì thế con đường mới mang tên Pépinière rồi tới các làng Thụy Khê, Yên Thái. Đứng trên gác ngôi nhà tôi cư ngụ, nhìn qua cửa sổ có thể thấy Vườn Ươm Cây và đàng xa là mặt nước Hồ Tây. Như vậy việc tác giả bài thơ thuật rằng mình nhìn thấy mặt nước Hồ Tây sau bãi cát phủ sương mù ở bờ hồ đồng thời nghe thấy tiếng chuông chùa Trấn Vũ và tiếng chày giã bột giấy của dân làng Yên Thái, là việc có thực, không phải bịa đặt để thi vị hóa. Tác giả đã ngẫu hứng vào lúc nào? Theo tôi nghĩ lúc đó là bình minh vì bốn chữ canh gà Thọ Xương. Hồi theo cấp tiểu học, tôi từng thuộc lòng một bài thơ khác khởi đầu như sau Trống canh năm gà vừa gáy sáng,Bừng mắt dậy trời đã rạng đông!Ngắm phong cảnh đẹp vô cùngHỏi ai thêu dệt? Ấy Ông Thợ Trời!Tác giả không nói tới tiếng trống cầm canh của đồn Thọ Xương mà lại nói tiếng gà gáy. Tất nhiên gà gáy vào lúc bình minh chứ không gáy ban đêm có lẽ tiếng gà gáy đã vang lên cùng lúc với tiếng trống điểm canh năm chăng? Vì thế tác giả mới nảy ra ý nghĩ ngộ nghĩnh là con gà gáy điểm canh! Đây là một nghệ thuật chơi chữ táo bạo của các nhà thơ, nhà văn, có dụng ý đánh động sự hiếu kỳ của độc giả hay thính giả. Từ xưa đến nay đã ai thấy gà gáy điểm canh suốt đêm đâu! Chẳng trách có người đã hiểu lầm và dịch canh gà Thọ Xương là chicken soup of Thọ Xương bouillon de poulet de Thọ Xương!Tiếng chuông chùa cũng như tiếng chuông giáo đường thường có ảnh hưởng gây xúc động trong tâm hồn những người nhạy cảm. Thời Nhà Đường, một thi sĩ Trung Hoa, ngủ trên thuyền ở bến Cô Tô, giữa đêm bỗng nghe thấy hồi chuông từ chùa Hàn San vọng lại. Ông ta ngẫu hứng đã sáng tác một bài thơ trứ danh trong đó có hai câuCô Tô thành ngoại Hàn San TựDạ bán chung thanh náo khách thuyền!Thuyền ai đậu bến Cô TôNửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn SanHồi chuông mà tác giả của chúng ta đã nghe thấy không có tính cách bất thường như hồi chuông giữa đêm khuya của chùa Hàn San đó chỉ là hồi chuông được gióng lên mỗi buổi sáng. Tuy nhiên đối với những người đang có chuyện ưu tư hay phiền não nó nhắc nhở cho họ rằng mọi sự trên cõi đời trần tục này đều là vô thường!Đánh tan tục niệm hồi chuông sớm!Gõ vỡ trần tâm tiếng mõ trưa!Tác giả của chúng ta có ở trong trạng thái tâm thần đó không? Ta không thể quyết đoán, chỉ biết chắc rằng ông hay bà ta đã chú tâm đến hồi chuông này. Có thế thôi!Dựa trên các chi tiết trong bài thơ, tôi giả thiết như sau tác giả vừa thức dậy, nhìn ra ngoài vườn thì thấy nhiều cành trúc trong bụi trúc trước nhà la đà trước gió, rồi nghe thấy tiếng chuông ban mai của chùa Trấn Vũ vang dội cùng lúc với tiếng gà gáy từ phía đồn canh của Huyện lỵ Thọ Xương. Tác giả thầm nghĩ "Thật chẳng khác chi con gà đã thay lính cầm canh báo cho ai nấy biết rằng canh năm tới rồi!". Tác giả nhìn về phía bãi cát ở bờ Hồ Tây, thì thấy sương mù mờ mịt. Mặc dù còn tranh tối tranh sáng như vậy, đã nghe thấy tiếng chày giã bột giấy của dân làng Yên Thái. Rồi qua màn sương, tác giả thấy mặt nước Hồ Tây lóng lánh như một tấm gương vĩ đại... Ngẫu hứng nhà thơ đã sáng tác bốn câu lục bát, còn được truyền tụng cho đến ngày làng Yên Thái ngày nayRõ ràng đó là một bài thơ tả cảnh, rất hiện thực. Tuyệt nhiên không phải là thơ tả tình vì không có một câu nào, một từ nào, nói lên tình cảm của chủ thể. Điều bất ngờ là do các biến chuyển của thời cuộc, bài thơ dần dần trở thành thơ tả tình, hơn thế nữa đã được dùng như một thông điệp để biểu lộ một thái độ chính Sự biến chuyển thứ nhất là việc nước Pháp chiếm Nam Kỳ làm thuộc địa 1863 rồi đặt nền bảo hộ trên hai miền Bắc Kỳ và Trung Kỳ 1884. Lợi dụng tình trạng khiếp nhược của Triều đình Huế, nhà cầm quyền Pháp đã dần dần biến chế độ bảo hộ trên giấy tờ thành một chế độ trực trị trong thực tế. Những thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định ở Bắc Kỳ hoàn toàn do các cai trị viên Pháp quản lý. Bộ mặt của những thành phố này thay đổi sâu xa. Trước cảnh tang thương ấy, nhiều sĩ phu cựu học cảm thấy nhớ tiếc thời đất nước còn tự chủ thời Hà Nội còn gọi là Thăng Long với những hình ảnh, những âm thanh được ghi trong bài thơ tứ tuyệt "Gió Đưa Cành Trúc La Đà"... Các cụ đã ngâm nga bài này để nói lên tâm trạng hoài cổ của mình và gián tiếp bầy tỏ nguyện vọng cần vương phục quốc. Nhưng sau sự thất bại của các nhà kháng chiến như Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thiện Thuật... của các phong trào duy tân như Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, sau khi thấy các vị vua có tinh thần đấu tranh như Hàm Nghi, Duy Tân, Thành Thái bị lưu đày ra hải ngoại... nhiều cụ đã chán nản, chua chát ghi nhận những sự thật ngang tai chướng mắt. Thí dụ Cụ Tú Trần Kế Xương trong mấy câuVợ lăm le ở vú!Con tấp tểnh đi bồi!Khách hỏi nhà Ông đếnNhà Ông đã bán rồi!b Sự biến chuyển thứ hai xẩy ra trong những năm đầu của thập kỷ 1930. Sau khi những âm mưu khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng và của Đảng Cộng Sản Đông Dương bị nhà cầm quyền thuộc địa thẳng tay đàn áp, Pháp áp dụng chính sách "lập lờ đánh lận con đen" với hy vọng ru ngủ nhân dân hai miền Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Vua Bảo Đại được Pháp đưa về hồi loan chấp chính, Triều đình Huế được tân trang với sự bổ nhiệm một số nhân vật tân học vào Viện Cơ Mật nhưng cơ cấu chính trị và hành chính vẫn giữ nguyên vẹn với các định chế lỗi thời như định chế quân chủ thiên mệnh, định chế quan lại, định chế xã thôn tự trị... Nguyện vọng của các tổ chức đấu tranh và những người yêu nước là phải canh tân toàn diện chứ không phải là cải cách nửa vời, giả dối! Bài thơ "Gió Đưa Cành Trúc La Đà" bị coi như tượng trưng xu hướng thủ cựu, một xu hướng chỉ có lợi cho nhà cầm quyền thuộc địa. Sau khi vua Bảo Đại bổ nhiệm sáu vị thượng thư "tân học" để thay thế lục bộ cũ, tuần báo hài hước Phong Hóa đã đăng một bức hí họa trong đó sáu cụ "Thượng mới", quần trùng áo dài, đeo thẻ bài lủng lẳng, chen chúc nhau trên một con thuyền nhỏ bé lênh đênh trên sông Hương. Dưới bức họa ghi hai câu thơ lục bátGió đưa cành trúc la đàMột thuyền chật ních bài ngà thượng thư ..Bài thơ "Gió Đưa Cành Trúc La Đà" trước kia được coi là biểu tượng của thái độ chống thực dân Pháp thì nay đã biến thành biểu tượng của thái độ thủ cựu, hợp tác với nhà cầm quyền thuộc địa Pháp!c Sự biến chuyển thứ ba xẩy ra sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 với sự di cư của hơn một triệu người Việt tị nạn ra ngoại quốc. Nhiều người tị nạn đã mượn bài thơ "Gió Đưa Cành Trúc La Đà" để nói lên nỗi lòng tưởng nhớ quê hương của mình. Tất nhiên những người gốc miền Trung đã sửa lại tiếng chuông Trấn Vũ thành tiếng chuông Thiên Cổ NgưBa mươi năm đã trôi qua. Số người tị nạn ở hải ngoại, cộng với con cháu họ và những người Việt không chịu hồi hương sau khi chế độ cộng sản Liên Xô tan rã, đã lên gần ba triệu. Khỏi cần chứng minh là nhiều thanh thiếu niên không biết gì về lịch sử cũng như văn chương Việt Nam. Nhiều người nói tiếng Việt còn không sõi. Do đó, khi họ đọc bài thơ trứ danh "Gió Đưa Cành Trúc La Đà" họ đã không hiểu những từ ngữ dùng trong bốn câu thơ. Nếu tra tự điển để tìm nghĩa từng chữ thì có thể sai lầm thảm hại như tác giả bài phiếm luận nói trên đăng trên internet đã chứng minh một cách rí rỏm. Chẳng hạn người ta có thể nghĩ rằng "la đà" là một đàn la và lạc đà rồi suy luận rằng cành trúc là cây roi tre của kẻ chăn đàn la và lạc đà này. Rồi Thiên Mụ thì được hiểu là Vợ của ông Trời, chuông đồng của chùa giống như chuông điện chỉ cần bấm là kêu leng keng, còn canh gà Thọ Xương có lẽ là canh xương gà trong các tiệm ăn Tầu! Tác giả bài phiếm luận đã dựa trên những sự lầm lẫn đó để làm bài thơ trào phúng sau đâyRoi tre vun vút vung raLũ lạc đà với lũ la chạy cuồng...Vợ Trời giáng một hồi chuôngGọi về ăn bát canh xương gà Tầu!Nếu dụng ý của tác giả bài phiếm luận là chế giễu các thanh thiếu niên không có đủ kiến thức về ngôn ngữ và văn chương Việt Nam, thì tôi nghĩ rằng cũng tội nghiệp cho họ quá! Họ đâu có được học hỏi về ngôn ngữ và văn chương Việt Nam như ông, cha của họ!Kẻ đáng trách chính là chúng ta, những người lớn tuổi thuộc thế hệ ông, cha của các thanh thiếu niên ấy. Chúng ta đã không làm hay không làm đủ bổn phận truyền đạt cho con cháu chúng ta những kiến thức về văn hóa dân tộc mà chúng ta đã hấp phiếm luận đăng trên Internet về bài thơ “Gió đưa cành trúc la đa” đã giúp chúng ta ý thức sâu sắc hiểm họa vong bản đang đe dọa con cháu chúng ta. Chúng ta không nên trì hoãn nữa cần phải làm một cố gắng quyết liệt để chấn chỉnh tình trạng này./.Vũ Quốc Thúc ParisGhi chú Đền Voi Phục thuộc làng Thụy Khuê cũ, nơi thờ Uy Linh Lang Đại Vương, một vị hoàng tử thời Lý đã có công lớn trong cuộc chiến chống quân Tống xâm lược năm đình làng Yên Thái, ngay ngã tư chợ Bưởi trên đường Thụy Khuê. Nơi đây vẫn thường diễn ra các sinh hoạt tín ngưỡng của người dân của phường Bưởi, quận Tây Hồ. Làng Yên Thái ngày trước vốn nổi tiếng với nghề làm giấy dó, đã đi vào lòng người qua thơ ca, ca lại Trang Chính Kiểm tra vở Văn, phụ huynh sốc khi thấy con viết "tiếng chuông Trấn Vũ" là nét đẹp tôn trọng thờ kính tổ tiên, còn "canh gà Thọ Xương" là món canh gà ở hồ Tây. Cô không sửa sai sót này mà vẫn cho điểm 8. Chia sẻ với VnExpress, một phụ huynh có con học lớp 7A10 THCS Lomonoxop Hà Nội cho biết, đi học về, con gái kể những câu ca dao được cô dạy trên lớp và đòi bố mẹ đưa đi ăn món "canh gà Thọ Xương". Anh hoảng hốt hỏi "ai nói với con có món này?", thì được trả lời là "cô giáo dạy Văn". Để khẳng định lời mình nói là đúng, cô bé đem cho bố xem vở tập làm văn có bài cảm nhận về 4 câu ca dao "Gió đưa cành trúc la đà / Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương / Mịt mù khói tỏa ngàn sương / Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ". Kiểm tra vở của con, anh sốc nặng khi thấy bài viết chữ nguệch ngoạc, sai cả chính tả lẫn nội dung nhưng vẫn được cô cho 8 điểm. "Đầu tiên, cảm giác của tôi là bàng hoàng. Bài văn câu chữ không được uốn nắn. Tôi không làm nghề giáo nhưng cũng biết ý chính của cụm từ "tiếng chuông Trấn Vũ" không nghiêng hẳn về nét đẹp truyền thống của dân tộc, tôn trọng thờ kính tổ tiên. Tôi có bảo với con "nếu đây là đền Hùng" thì ý này sẽ rõ hơn. Còn đọc đến đoạn "món ăn đặc sản là canh gà Thọ Xương thì tôi không thể tin vào mắt mình nữa", vị phụ huynh bức xúc. Anh kể, sau phút sửng sốt, anh gặng hỏi con và cháu vẫn trả lời "cô dạy thế". Cháu nói "nhiều bạn lớp con làm thế, chẳng lẽ chúng con nghĩ sai giống nhau?". Thực tế, nội dung con viết sai trong bài không được cô gạch chân, trong khi cô vẫn sửa các chữ viết tắt như "4" thành "bốn", "dc" thành "được" và cuối bài còn phê "Có ý thức làm bài...", và cho điểm 8 +. Bài văn của học sinh lớp 7A10, ghi "canh gà Thọ Xương là món ăn nổi tiếng của Hà Nội", nhưng cô giáo không sửa mà vẫn cho điểm 8. Ảnh Phụ huynh cung kiểm tra thông tin, anh gọi điện cho một số bạn học của con gái, hỏi về bài kiểm tra. Một nam sinh kể "Con được cô dạy như thế. Con viết nguyên vào bài và về nhà bị bố mắng". Chung nỗi bức xúc, một phụ huynh khác cho hay, khi kiểm tra vở của con, anh cảm thấy lạ khi thấy viết "canh gà Thọ Xương" là món ẩm thực nổi tiếng của hồ Tây. Trước đó, con có nói đến điều này nhưng anh tưởng rằng cháu nói đùa. Anh phân tích rằng "canh gà Thọ Xương" là tiếng gà báo sang canh thì cháu nói "cô giáo dạy như thế". Phụ huynh này tâm sự, không hiểu tại sao cô giáo lại có thể nhầm lẫn đến mức độ như thế được. Trong bài kiểm tra của con trai anh, cô không gạch chân chỗ cháu viết sai, mà còn cho 7 điểm và khen làm tốt. Theo anh, kể cả khi cô không dạy, đứa trẻ viết như thế thì cô phải sửa và không được cho điểm cao. "Không phải một mình con tôi mà rất nhiều cháu nhầm lẫn như nhau. Khi chấm bài, cô không phản ứng gì chứng tỏ cô đồng tình với học sinh. Các cháu trong trắng như tờ giấy, làm sao có thể nói khác đi được", anh chia sẻ. Còn một nữ sinh lớp 7A10 khẳng định "Cô giáo đã dạy cho bọn con như thế. Cô dạy thế nào, chúng con làm bài tập như vậy. Khi cô chấm cũng không gạch ý này và còn cho con điểm cao". Trao đổi với bà Ngô Thị Hà, Hiệu phó THCS Lomonoxop cho biết, khi nghe thông tin bà cũng rất sốc. Bà đã yêu cầu giáo viên thu toàn bộ vở của học sinh để kiểm tra. Chính bà cũng bất ngờ khi thấy không chỉ một, mà nhiều em đã viết "canh gà Thọ Xương" là món ăn nổi tiếng của Hà Nội. "Người dạy văn lớp 7A10 hôm đó là cô Hà Thu Thủy. Chúng tôi đã yêu cầu cô viết bản tường trình, nói lại sự việc trước tổ Văn của trường", bà Hà nói. Trong khi đó, cô Thủy cho hay, buổi học có bài tập cảm nhận về bốn câu thơ nêu trên diễn ra sáng 12/9 và chiều cùng ngày cả lớp ôn tập rồi làm bài kiểm tra một tiết. Cô ra hai đề trong đó có đề cảm nhận về bốn câu ca dao "Gió đưa cành trúc la đà...". "Tôi yêu cầu các em tự cảm nhận, cô không gợi ý, sau đó thu vở một số em để chấm. Trong khi chấm, thấy nhiều học sinh hiểu nhầm 'canh gà Thọ Xương' là món canh gà, trong khi hiểu đúng phải là 'tiếng gà báo sang canh'", cô Thủy kể và cho hay, lúc trả bài đã nói lớp có nhiều bạn làm sai, nhưng vì bài tự cảm nhận nên các em tự sửa để cho nhớ. Cô Thủy cũng giải thích, do lúc ấy cuối giờ, lớp khá ồn và lộn xộn nên học sinh không nhớ để sửa ngay. Cô sơ suất không kiểm tra lại vở các con và không sửa chu đáo vào ngày hôm sau. "Tôi xin lỗi phụ huynh vì đã không sửa bài thấu đáo cho con và cảm ơn phụ huynh có phản hồi để tôi có thể nhận ra sai sót nghiệp vụ sư phạm của mình. Tôi đã khắc phục bằng cách hướng dẫn học sinh sửa và giảng lại cho các con hiểu. Bài ca dao tôi cho các con làm cũng là bài ca dao ngoài chương trình, tôi muốn các con ôn luyện để hiểu hơn nét đẹp của Hà Nội vì các con là học sinh thủ đô", cô Thủy nói. Còn thầy Trần Trung, Tổ trưởng tổ Văn cho hay, khi nghe chuyện, thầy đã nghĩ "làm sao có cách dạy ngớ ngẩn như vậy được?". Theo thầy Trung, sai lầm lớn nhất của cô Thủy là không cắt nghĩa một cách tường minh cho học sinh biết rằng, đó là cách hiểu sai, đó là đêm năm canh ngày sáu khắc, chứ không phải món ăn. Hoàng Thùy

tiếng chuông trấn vũ canh gà thọ xương